Tiểu sử Karl_Marx

Tuổi thơ và nền giáo dục ban đầu: 1818-1836

Marx được vào ngày 5 tháng 5 năm 1818, cha là Heinrich Marx 1777–1838)và mẹ là Henriette Pressburg 1777–1838). Ông được sinh tại Brückengasse 664 ở Trier, một thị trấn sau đó là một phần của tỉnh Lower Rhine, Vương quốc Phổ.[13][14] Marx là một người chủng tộc Do Thái. Ông ngoại ông là một thầy giáo dạy luật Do Thái người Hà Lan, trong khi đàng nội ông cung cấp nhiều thầy giáo của vùng Trie từ năm 1723, một vai trò được nắm bởi ông nội ông là Meier Halevi Marx. Cha ông, được biết tới với tên Herschel, người lần đầu tiên trong dòng họ nhận được một nền giáo dục thế tục. Ông trở thành một luật sư và đã sống tương đối giàu có và cuộc sống trung lưu, với gia đình ông sở hữu một số vườn nho ở Moselle. Trươc khi sinh con, và sau khi sự bài Do Thái trở lại vùng Rhineland, Herschel chuyển từ Do Thái giáo để gia nhập phái Phúc Âm nhà thờ -Prussia.[15]

Nơi sinh của Marx tại Trier, Gia đình ông ở 2 phòng tầng một và 3 phòng ở tầng 2. Được mua bởi Đảng Dân chủ Xã hội Đức trong năm 1928, nó bây giờ là nhà bảo tàng tưởng nhớ tới ông.

Mức độ lớn phi tôn giáo, Heinrich là một thành viên của phong trào Khai sáng, quan tâm trong nhiều ý tưởng của những nhà triết học Immanuel Kant và Voltair. Một người theo chủ nghĩa tự do- cổ điển, ông đã tham gia cổ động cho một hiến pháp và cải cách trong Prussia, tại thời điểm là quân chủ tuyệt đối.[16] Trong năm 1815, Heinrich Marx đã bắt đầu làm việc như một luật sư và trong năm 1819 đã di chuyển gia đình tới một căn nhà 10 phòng gần Porta Nigra.[17] Vợ ông, Henriette Pressburg, là một người Do Thái -Hà Lan xuất thân từ một gia đình kinh doanh phát đạt mà sau đã thành lập công ty Philips Electronics. Chị của bà Sophie Pressburg (1797–1854) kết hôn với Lion Philips (1794–1866) và là bà của hai người Gerard PhilipsAnton Philips và bà cố của Frits Philips. Lion Philips là một người sản xuất thuốc lá Hà Lan giàu có và là một nhà tư bản công nghiệp, người mà Karl và Jenny Max sẽ sau này thường xuyên đến cậy nhờ vay tiền khi họ bị lưu đày ở Luân Đôn.[18]

Chỉ một ít thông tin được biết về tuổi thơ của Marx.[19][20] Là con thứ ba của gia đình có 9 anh em, ông trở thành người con cả khi anh trai ông chết trong năm 1819. Marx và những người anh em sót lại của ông, Sophie, Hermann, Henriette, Louise, Emilie and Caroline, được rửa tội trong nhà thờ Lutheran vào tháng 8 năm 1824 và mẹ của họ trong tháng 12/1825.[21] Marx đã được giáo dục riêng bởi cha ông cho tới năm 1830, khi ông nhập học trường Trung học Trier, hiệu trưởng là Hugo Wyttenbach, một người bạn của cha ông. Bằng việc thuê nhiều người theo chủ nghĩa tự do làm giáo viên, Wyttenbach đã chịu sự tức giận của chính phủ bảo thủ địa phương. Sau đó, cảnh sát đã đột kích trường học năm 1832 và khám phá những tài liệu tán thành chủ nghĩa tự do đã được phân phát giữa những sinh viên. Xem xét việc phân phát những tài liệu như một hành động kích động phản loạn, chính quyền đã tiến hành cải cách và thay thế nhiều nhân viên trong suốt thời gian có mặt của Marx.[22]

Karl Marx khi còn trẻ

Vào tháng 10/1835 ở tuổi 17, Marx đi tới Đại học Bonn ao ước để học triết học và văn học, nhưng cha ông khăng khăng môn Luật như một lĩnh vực thực tế hơn.[23][24] Do điều kiện liên quan tới như một chứng ngực thở yếu, Marx được miễn nghĩa vụ quân sự khi ông 18 tuổi. Trong khi tại Đại học Bonn, Marx gia nhập câu lạc bộ Poets (câu lạc bộ văn nghệ sĩ), một nhóm chứa đựng tư tưởng chính trị cấp tiến mà được theo dõi bởi cảnh sát.[25] Marx cũng gia nhập Câu lạc bộ quán rượu Tavern(German: Landsmannschaft der Treveraner), tại một thời điểm phục vụ như một đồng chủ tịch câu lạc bộ.[26] Ngoài ra, Marx bị lôi kéo vào một vài cuộc tranh cãi, một vài trong đó trở thành nghiêm túc: vào tháng 8/1836 ông đã tham gia trong một cuộc đấu kiếm với một thành viên trường đại học Borussian Korps.[27] Tuy nhiên điểm số của ông kì đầu tiên là tốt, chẳng bao lâu điểm số bị kém hơn, dẫn tới cha ông cưỡng ép chuyển tới trường Đại học Berlin nghiêm túc và kinh viện hơn.[28]

Học vấn

Sau khi tốt nghiệp Trung học Trier vào mùa thu năm 1835, Marx vào Đại học Bonn theo học luật năm 17 tuổi. Tại đây, ông tham gia nhóm uống rượu Quán Trier và từng là chủ nhiệm câu lạc bộ; vì thế việc học tập của ông cũng bị ảnh hưởng. Marx quan tâm đến nghiên cứu triết họcvăn học, nhưng cha không cho phép điều đó vì không tin rằng Marx sẽ sống sung túc trong tương lai nếu làm một học giả.

Những năm tiếp theo, cha của Marx buộc ông chuyển sang Đại học Friedrich-WilhelmsBerlin. Khi đó, Marx viết nhiều thơtiểu luận liên quan đến cuộc sống, sử dụng ngôn ngữ triết học nhận được từ người cha thần luận tự do của mình, chẳng hạn tác phẩm "Thượng đế". Trong suốt giai đoạn này, ông tiếp thu triết học vô thần của những người Hegel cánh tả (hay Hegel trẻ). Marx đạt học vị Tiến sĩ năm 1841 với luận án mang tiêu đề: "Sự khác biệt giữa triết học tự nhiên của Epicurus với triết học tự nhiên của Democritus".

Marx và những người Hegel trẻ

Ở Berlin, Marx chủ yếu quan tâm đến triết học. Ông tham gia một nhóm sinh viêngiáo sư trẻ gọi là những "người Hegel trẻ". Đối với nhiều người trong số họ, phương pháp biện chứng của Georg Wilhelm Friedrich Hegel, mặc dù chỉ với nội dung lý thuyết, đã cung cấp một vũ khí mạnh mẽ cho việc phê bình nền chính trị và tôn giáo lúc đó. Một số thành viên đã thấy sự tương tự giữa triết học Aristotetriết học Hegel. Một người Hegel trẻ khác, Max Stirner, đã áp dụng sự phê bình Hegel và cho rằng những người theo chủ thuyết vô thần thật sự là những người "ngoan đạo" (trong cuốn Der Einzige und sein Eigenthum). Quan điểm của ông không được đồng tình bởi hầu hết các đồng sự; nhưng dù sao, cuốn sách của Stirner là lý do chính để Marx từ bỏ quan điểm của Ludwig Andreas Feuerbach để phát triển các khái niệm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Một trong những giáo sư của Marx là Nam tước Westphalen, cha của Jenny von Westphalen, vợ của Marx sau này.

Marx tại Paris và Brussels

Vì những điều kiện kiểm duyệt tại Phổ, Marx rút khỏi ban biên tập của tờ Rheinische Zeitung, và dự định xuất bản, cùng với Arnold Ruge, một nhà cách mạng Đức khác, Deutsch-Französische Jahrbücher,[29] (Biên niên sử Đức-Pháp) với trụ sở tại Paris, và tới đây vào cuối tháng 10 năm 1843. Paris ở thời điểm đó là nơi ở và hoạt động của nhiều nhà cách mạng Đức, Anh, Ba Lan và Italia. Ở Paris, ngày 28 tháng 8 năm 1844, tại Café de la Régence ở Place du Palais ông gặp Friedrich Engels, người sẽ trở thành người bạn và đồng sự quan trọng nhất trong cả cuộc đời ông. Engels mới chỉ gặp Marx một lần trước đó (và ngắn ngủi) tại văn phòng của Rheinische Zeitung năm 1842;[30] ông tới Paris để giới thiệu với Marx cuốn sách mới xuất bản của mình, Điều kiện của giai cấp lao động tại Anh Quốc năm 1844.[31] Cuốn sách này đã thuyết phục Marx rằng giai cấp lao động sẽ là tác nhân và công cụ của cuộc cách mạng cuối cùng trong lịch sử.

Sau khi Deutsch-Französische Jahrbücher thất bại, Marx, sống tại rue Vaneau, đã viết cho tờ báo cực đoan nhất trong mọi tờ báo Đức tại Paris, và cả ở châu Âu, Vorwärts, được thành lập và điều hành bởi một hội kín tên là Liên hiệp của sự Công bằng. Khi không viết, Marx nghiên cứu lịch sử Cách mạng Pháp và đọc Proudhon.[32] Ông cũng bỏ nhiều thời gian nghiên cứu một khía cạnh của cuộc sống mà ông chưa từng tìm hiểu trước đó: một tầng lớp vô sản lớn ở thành thị.

“ [Cho tới nay chỉ xuất hiện chủ yếu tại các khu vực đại học...] Sự tán thành bất ngờ của Marx với lý tưởng vô sản có thể được quy trực tiếp (có thể sự tán thành đó của các nhân vật cộng sản Đức thời kỳ đầu như Weitling[33]) cho những cuộc tiếp xúc đầu tiên với những trí thức [và sách vở] xã hội tại Pháp.[34] ”

Phiên bản đầu tiên của Tuyên ngôn Cộng sản, được xuất bản bằng tiếng Đức năm 1848

Marx đã đánh giá lại mối quan hệ của mình với Những người Hegel trẻ, và trong hình thức một bức thư trả lời về chủ nghĩa vô thần của Bauer viết Về vấn đề Do Thái. Tiểu luận này chủ yếu gồm một sự phê bình các ý tưởng hiện thời về các quyền dân sựnhân quyềngiải phóng con người; nó cũng bao gồm nhiều luận điểm chỉ trích đạo Do Thái và cả Thiên chúa giáo từ quan điểm giải phóng xã hội. Engels, một người cộng sản nhiệt thành, đã khơi dậy sự quan tâm của Marx với tình hình của giai cấp lao động và hướng sự chú ý của Marx vào kinh tế. Marx trở thành một người cộng sản và đã đặt ra các quan điểm của mình trong một loạt các bài viết được gọi là Các bản thảo kinh tế và triết học năm 1844, không được xuất bản cho tới tận thập niên 1930s. Trong Bản thảo, Marx vạch ra một quan niệm nhân đạo của chủ nghĩa cộng sản, bị ảnh hưởng bởi triết lý của Ludwig Feuerbach và dựa trên sự đối lập giữa bản chất xa lạ của lao động dưới chủ nghĩa tư bản và một xã hội cộng sản trong đó con người được tự do phát triển bản chất của mình trong sản xuất tập thể.

Tháng 1 năm 1845, sau khi Vorwärts thể hiện sự ủng hộ nhiệt thành của mình với nỗ lực ám sát vua nước Phổ là Frederick William IV, chính quyền Pháp ra lệnh cho Marx, cùng nhiều người khác, rời Paris. Ông và Engels chuyển sang Brussels Bỉ.

Marx chú tâm nghiên cứu kỹ lịch sử, và cùng với Engels đưa ra ý tưởng chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt trong một bản thảo (được xuất bản sau khi ông mất với tên gọi Hệ tư tưởng Đức), phát biểu luận cương căn bản của nó rằng "bản chất của các cá nhân phụ thuộc vào các điều kiện vật chất quyết định sức sản xuất của họ". Marx đã lần theo lịch sử nhiều mô hình sản xuất và phán đoán sự sụp đổ của mô hình sản xuất khi đó - chủ nghĩa tư bản công nghiệp – và sự thay thế nó bằng chủ nghĩa cộng sản. Đây là tác phẩm lớn đầu tiên mà các học giả coi là giai đoạn sau của ông, từ bỏ chủ nghĩa nhân đạo bị ảnh hưởng bởi Feuerbach trong các tác phẩm thời kỳ đầu.

Sau đó, Marx viết Sự khốn cùng của triết học (1847), nó đáp lại cho Triết học của sự khốn cùng của Pierre-Joseph Proudhon, một người ủng hộ chủ nghĩa xã hội vô chính phủ Pháp và là một nhà phê bình tư tưởng xã hội Pháp. Các tác phẩm này đặt ra nền tảng cho tác phẩm nổi tiếng nhất của Marx và Engels, Tuyên ngôn Cộng sản, được xuất bản lần đầu ngày 21 tháng 2 năm 1848 như bản tuyên ngôn của Liên đoàn Cộng sản, một nhóm nhỏ những người Cộng sản châu Âu chịu ảnh hưởng của Marx và Engels. Cuối năm ấy, châu Âu xuất hiện một loạt các cuộc phản kháng, nổi dậy và bất ổn bạo lực được gọi là Các cuộc cách mạng năm 1848. Chính quyền Bỉ trục xuất Marx khỏi nước này.[35]

Tháng 2 năm 1848 một phong trào cấp tiến chiếm quyền lực của Vua Louis-Philippe tại Pháp và mời Marx quay trở lại Paris, nơi ông chứng kiến cuộc Nổi dậy cách mạng những ngày tháng 6. Khi chính quyền này sụp đổ năm 1849, Marx quay trở lại Cologne và tuyên bố Neue Rheinische Zeitung ("New Rhenish Newspaper"). Trong thời gian tồn tại của nó ông hai lần bị đưa ra xét xử, ngày 7 tháng 2 năm 1849 bởi một lỗi nhỏ của báo chí, và vào ngày 8 với tội danh xúi giục nổi dậy vũ trang. Cả hai lần ông đều được trắng án. Tờ báo nhanh chóng bị đàn áp và Marx quay trở lại Paris, nhưng lại bị trục xuất. Lần này ông sang tị nạn tại London.

Sống tại London

Marx chuyển tới London tháng 5 năm 1849 và ở lại đó trong phần còn lại của cuộc đời. Trong vài năm đầu ông và gia đình sống rất nghèo khổ. Ông làm việc một thời gian ngắn như một cộng tác viên cho tờ New York Tribune năm 1851.[36] Ông xin nhập quốc tịch Anh nhưng bị chính quyền sở tại bác bỏ vì coi ông là "một người Đức chuyên xúi bẩy", và vận động cho tư tưởng cộng sản nên "khó có thể thành kẻ trung thành với Nhà Vua", và không có thu nhập. Gia đình ông phải sống dựa vào tiền trợ cấp từ Friedrich Engels. Marx cũng đã từ bỏ quốc tịch Phổ và không được chính phủ Phổ cho tái nhập tịch.[37]

Tại London Marx chú tâm vào hai hoạt động: tổ chức cách mạng, và cố gắng tìm hiểu kinh tế chính trịchủ nghĩa tư bản. Ông đã đọc nghiên cứu của Engels về giai cấp lao động. Trong thời gian này, Marx tạm ngừng nghiên cứu triết học và hoạt động cho Quốc tế cộng sản I. Ông được bầu vào Tổng Hội đồng của tổ chức này tại kỳ họp đầu tiên của nó năm 1864. Ông hoạt động đặc biệt tích cực để chuẩn bị cho các Đại hội hàng năm của Quốc tế cộng sản và lãnh đạo cuộc đấu tranh chống lại phe vô chính phủ của Mikhail Bakunin (1814–1876). Dù Marx chiến thắng trong cuộc đấu tranh này, việc chuyển trụ sở của Tổng Hội đồng từ London sang New York năm 1872, được Marx ủng hộ, khiến Quốc tế cộng sản suy tàn. Sự kiện chính trị quan trọng nhất trong thời gian tồn tại của Quốc tế cộng sản là Công xã Paris năm 1871 khi các công dân Paris nổi dậy chống chính phủ và chiếm giữ thành phố trong hai tháng. Về cuộc đàn áp đẫm máu với cuộc nổi dậy này, Marx đã viết một trong những cuốn sách nhỏ nổi tiếng nhất của ông, Cuộc nội chiến ở Pháp, với lập trường bảo vệ Công xã.

Với những thất bại và tan rã liên tục của các cuộc cách mạng và phong trào công nhân, Marx cũng tìm cách tìm hiểu chủ nghĩa tư bản, và giành rất nhiều thời gian trong Thư viện Anh nghiên cứu và phê bình các tác phẩm của các nhà kinh tế chính trị và dữ liệu kinh tế. Tới năm 1857 ông đã có hơn 800 trang ghi chú và tiểu luận ngắn về tư bản, đất đai, lương lao động, nhà nước, thương mại nước ngoài và thị trường thế giới, mãi tới năm 1941 tác phẩm này mới được xuất bản, dưới tựa đề Grundrisse. Năm 1859, Marx xuất bản Đóng góp vào phê bình kinh tế chính trị, tác phẩm kinh tế nghiêm túc đầu tiên của ông. Đầu những năm 1860 ông làm việc để soạn ra ba tập lớn, Các lý thuyết giá trị thặng dư, bàn về các nhà lý thuyết kinh tế chính trị, đặc biệt là Adam SmithDavid Ricardo. Tác phẩm này được xuất bản sau khi ông mất với sự biên tập của Karl Kautsky và thường được coi là tập thứ tư của cuốn Tư bản, và tạo nên một trong những chuyên luận đầy đủ đầu tiên về lịch sử tư tưởng kinh tế. Năm 1867, khá lâu sau dự định, tập đầu của Tư bản được ấn hành, một tác phẩm phân tích các quá trình sản xuất tư bản. Trong tác phẩm này, Marx trình bày chi tiết lý thuyết giá trị lao động của mình và ý tưởng về giá trị thặng dưbóc lột mà ông cho là sẽ chắc chắn dẫn tới sự sụt giảm trong tỷ lệ lợi nhuận và sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản công nghiệp. Các Tập II và III vẫn chỉ ở dạng bản thảo và Marx tiếp tục làm việc với chúng trong suốt cả cuộc đời và chỉ được Engels xuất bản sau khi ông mất.

Trong thập kỷ cuối cùng của cuộc đời mình, sức khoẻ của Marx suy sụp và ông không còn khả năng duy trì nỗ lực hoàn thành các tác phẩm quan trọng của ông. Ông đã cố gắng tìm cách bình luận về căn bản chính trị đương thời, đặc biệt là chính trị tại Đức và Nga. Cuốn Phê phán cương lĩnh Gotha của ông phản đối khuynh hướng của những người theo ông là Wilhelm Liebknecht (1826–1900) và August Bebel (1840–1913) để thích ứng với chủ nghĩa tư bản nhà nước của Ferdinand Lassalle về lợi tức trong một đảng xã hội thống nhất. Năm 1880, vợ ông là Jenny von Westphalen-Marx chết vì ung thư gan. Năm 1883, Marx qua đời vì bệnh viêm phổi được chôn cất ở khu cho người vô thần trong nghĩa địa Highgate, London.[37]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Karl_Marx //nla.gov.au/anbd.aut-an35331985 http://lea.vitis.uspnet.usp.br/arquivos/leaworking... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/367265 http://www.chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNga... http://www.findarticles.com/ http://books.google.com/books?id=inmTyPPdR5oC&pg=R... http://www.oup.com/oxforddnb/info/freeodnb/librari... http://aleph.nkp.cz/F/?func=find-c&local_base=aut&... //www.getty.edu/vow/ULANFullDisplay?find=&role=&na... http://www-personal.umd.umich.edu/~delittle/Marxis...